Ông Phạm Hoàng Quân
Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân, một
chuyên gia về lịch sử Trung Quốc cho biết, bắt đầu từ Nhà Hán (203TCN -
220 ), Trung Quốc đã có những bộ chính sử do một cơ quan chuyên môn của
triều đình biên soạn và công việc này được suy trì cho đến hết thời Nhà
Thanh. Tức là mỗi triều đại Phong Kiến ở Trung Quốc đều có những bộ sử
riêng như Hán sử, Đường sử, Tống sử, Minh sử.v.v… Một vùng đất thuộc
lãnh thổ của Trung Quốc thì phải được biên chép trong “địa lý chí” thuộc
các bộ chính sử. Đó là cơ sở để xác nhận sự thiết lập hành chính hoặc
đã quản lý. Thế nhưng trong địa lý chí của các bộ chính sử của Trung
Quốc đều không có ghi chép về Hoàng Sa và Trường Sa.
Trung Quốc là đất nước có truyền thống
về sử hoá lâu đời nhất thế giới nên tư liệu lịch sử nói chung của Trung
Quốc rất đồ sộ và tư liệu lịch sử liên quan đến Biển Đông cũng rất
nhiều. Và, tất cả các ghi chép của “địa phương chí” trong các bộ chính
sử của Trung Quốc về lãnh thổ đều thống nhất thừa nhận vùng đất xa nhất
của họ ở cực nam là huyện Nhai, của phủ Huỳnh Châu, đảo Hải Nam.
“Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những
bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí chưa từng biên chép gì về
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đó là điểm để người ta nhận rằng
Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý
chí đều có mục xác nhận các đơn vị hành chính đến Huyện Nhai của phủ
Huỳnh Châu, nằm trong phạm vi đảo Hải Nam, không vượt qua đảo Hải Nam.
Những tài liệu chỉ rõ những lời tâu, lời chỉ dụ của Hoàng đế hoặc những
tấu sớ của các quan cũng thừa nhận đất của Trung Quốc đến Huyện Nhai,
những vùng biển phía ngoài là họ không quản lý được vì đó là của những
nước khác, vùng biển chung quốc tế. Tức là lúc đó họ không nói hẳn là
của ai nhưng họ không thừa nhận là của họ.” – ông Quân khẳng định.
Chỉ đến năm 1951, Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa đề cập về chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Ý định
ấy kèm theo việc chiếm đóng thực tế một bộ phận vào năm 1956 và toàn bộ
quần đảo này năm 1974. Tháng Giêng năm 1974, lực lượng vũ trang Trung
Quốc dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Ngay khi đó, Chính phủ
Nam Việt Nam đã đưa ra lời phản đối lên Liên hợp quốc, công bố sách
trắng về các quần đảo và lên án mạnh mẽ chống lại các hành động bất hợp
pháp của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Chính quyền Sài Gòn đã sử dụng diễn đàn
tại khóa hợp thứ hai của Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật
biển tại Caracas năm 1974 để khẳng định lại các quyền của mình đối với
hai quần đảo này. Trong năm 1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam nhắc lại rằng, “chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là
những vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc”.
Như vậy, hai chính phủ khẳng định mình
là đại diện cho Nam Việt Nam (được trao quyền quản lý lãnh thổ hai quần
đảo) đã có chung một thái độ về vấn đề này, không làm đứt mạch chủ quyền
của Việt Nam đối với hai quần đảo. Tuy nhiên, Trung Quốc lập luận rằng
đã có sự từ bỏ danh nghĩa chủ quyền từ phía Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Đó là tuyên bố của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ công hòa, ông Phạm Văn
Đồng, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Công hàm của ông Phạm Văn Đồng nói như
sau: “Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lí rõ, Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ghi nhận và tán thành lời tuyên bố ngày
4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về
hải phận của Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tôn trọng
quyết định đó và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm
triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ
với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.”
Ông Đinh Kim Phúc
Có thể thấy rằng, tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ có một nghĩa hẹp là công nhận bề rộng lãnh hải của Trung Quốc. Do vậy, thật không đúng khi lập luận rằng, Việt Nam đã “khẳng định lại sự công nhận của họ đối với yêu sách của Trung Quốc” đối với các quần đảo.
Quan trọng hơn, ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa
Đông Nam Á học, Đại học Mở TP.HCM cho rằng: “Quốc hội nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cũng như
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay chưa bao giờ
lên tiếng phủ nhận hoặc ra Nghị quyết từ bỏ chủ quyền của mình trên hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.”
Hơn nữa, trong chiến tranh, vì lợi ích
quân sự chung, bên này hay bên kia có thể sử dụng lãnh thổ láng giềng
hay dàn xếp lãnh thổ tạm thời. Và luật pháp quốc tế không thể rút ra từ
những việc như vậy các kết luận về tính liên tục của danh nghĩa pháp lý.
Những năm sau 1975, Trung Quốc tiếp tục
duy trì việc chiếm đóng bằng quân sự trên toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền của mình
đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Đó là những khẳng định liên tục các
quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam từ xa xưa, sau đó là của Pháp
thay mặt cho nước Việt Nam thuộc địa và đã có sự chiếm đóng thật sự hai
quần đảo.
Và liên tục từ đó đến nay, Chính
phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, khẳng định
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của
lãnh thổ Việt Nam. Theo công pháp quốc tế, việc sở hữu một lãnh thổ
không chấm dứt chỉ vì mất đi sự chiếm giữ vật chất. Nói cách khác, sự
gián đoạn các biểu hiện vật chất tự nó không làm gián đoạn chủ quyền nếu
như không có ý định từ bỏ lãnh thổ đó một cách rõ ràng.
Giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc được đưa trái phép vào Việt Nam |
Bức Công hàm ngày 14-9-1958 của Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký
Như vậy, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng
lịch sử - pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Việt Nam là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu, quản lý hai quần đảo một
cách liên tục, hòa bình và phù hợp với các quy định luật pháp quốc tế.
Tuy vậy, trong những năm gần đây, để hỗ trợ yêu sách chủ quyền phi lý
đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của mình, Trung Quốc đã và đang
tiến hành các hoạt động củng cố yêu sách chủ quyền cả bằng hoạt động
lập pháp và trên thực tế như nâng cấp Hải Nam thành tỉnh thứ 30 của nước
này, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa. Đặc biệt, năm 2007, Quốc
vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp
huyện Tam Sa, thuộc tỉnh Hải Nam, trực tiếp quản lý cả quần đảo Hoàng Sa
và Trường của Việt Nam.
Rõ ràng, Trung Quốc đã dùng vũ lực để
chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bằng những cuộc tấn
công quân sự vào năm 1956 và 1974. Nhưng sự chiếm đóng này không thể
chuyển hóa thành một danh nghĩa pháp lý. Pháp luật quốc tế hiện đại
nghiêm cấm sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia.
Cụ thể, Điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc nêu rõ: “lãnh thổ
của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự
do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương. Lãnh thổ của
một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc
gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh
thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận
là hợp pháp”.
Bà Monique Chemillier Gendreau: "Trung
Quốc không hề có giấy tờ chứng thực lịch sử, đã dùng vũ lực để chiếm
đóng Hoàng Sa. Với quần đảo Trường Sa, chính quyền nước này cũng không
có quyền gì mà chỉ chiếm bằng vũ lực."
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư
công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis
Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu nhấn mạnh, việc chiếm đóng
bằng vũ lực không thể là cơ sở của một quyền. “Trung Quốc không hề có
giấy tờ chứng thực lịch sử, đã dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa. Với
quần đảo Trường Sa, chính quyền nước này cũng không có quyền gì mà chỉ
chiếm bằng vũ lực. Điều này không thể được xem là một quyền theo luật
pháp quốc tế. Tôi đã nghiên cứu nhưng chưa tìm được những giấy tờ nào về
sự có mặt hoặc quản lý thực sự của Trung Quốc. Thậm chí trong những
cuộc thương lượng, họ vẫn không nắm rõ vấn đề, nhầm lẫn. Họ chủ yếu dựa
vào vũ lực.”
Như vậy, tất cả các hành động nhằm củng
cố quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa đề được xem là vô giá trị.
Không có chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa, không có chủ quyền ở đảo Tri
Tôn, Trung Quốc không thể vận dụng Công ước của Liên Hợp quốc năm 1982
để xác định vùng biển thuộc quyền đảo Hoàng Sa để xác lập chủ quyền và
quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với những vùng biển đó. Chính vì vậy
ngụy biện khi cho rằng: “vị trí đặt giàn khoan Hải dương 981” cách đảo
Tri Tôn 17 hải lý là trong vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa mà họ đang
chiếm đóng là không có cơ sở pháp lý. Nếu áp dụng Công ước của Liên Hợp
quốc về luật Biển năm 1982 để tính cách vùng biển xung quan quần đảo
Hoàng Sa chỉ có Việt Nam – quốc gia có chủ quyền hợp pháp quốc với quần
đảo Hoàng Sa mới có chủ quyền và quyền chủ quyền đối với các vùng biển
đó.
Hơn nữa, vị trí Trung Quốc hạ đặt giàn
khoan Hải dương 981 lại nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc
gia Việt Nam, cách đường cơ sở được vạch ra theo Công ước luật biển 119
hải lý, tức là vào sâu trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam 81
hải lí. TS luật học Trần công Trục, Nguyên Trưởng ban Ban Biên giới
Chính Phủ nhấn mạnh: “Căn cứ vào Công ước của Liên Hợp quốc về luật Biển
năm 1982 để tính toán vị trí Trung đặt giàn khoan 981 thì thấy rằng vị
trí này nằm rất sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
Việt Nam. Bởi vì vị trí này nằm cách đảo Lý Sơn, một điểm nằm trên đường
cơ sở của VN 119 hải lý, cách ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh
tế là 80 hải lí và cách đảo Tri Tôn mà Trung Quốc gọi là Chúng Kiến là
18 hải lý nghĩa là nó nằm ngoài 12 hải lý. Căn cứ vào công ước luật biển
thì quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam họ chiếm đóng trái phép là vô lý rồi
nhưng ngay chuyện Trung Quốc tính đường cơ sở để tính các vùng biển là
hoàn toàn áp dụng sai về luật biển để tạo ra vùng chồng lấn, tạo ra vùng
tranh chấp thì đó là hoàn toàn vô lý. Chúng ta không thể nào chấp nhận
cái quan điểm đó!”
TS Trần Công Trục: "Trung Quốc đã cố tình vận dụng sai Công ước luật biển 1982 để ngụy biện cho hành động sai trái của mình".
Như vậy, hành động hạ đặt trái phép
giàn khoan Hải dương 981 vừa qua của Trung Quốc không có bất cứ cơ sở
pháp lý nào. Nó chỉ là những bước đi tiếp theo những hoạt động sai trái
của Trung Quốc như chiếm đóng nhóm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa
vào năm 1956 và toàn bộ quần đảo này vào năm 1974, các hoạt động quân sự
để chiếm đóng một số đảo ở quần đảo của Việt Nam vào năm tháng 3 năm
1988 cũng như yêu sách đường lưỡi bò phi lý và các hành động nhằm kiểm
soát thực tế yêu sách này.
Hạ đặt giàn khoan hải dương 981 là một
việc làm trái phép nối tiếp các việc làm sai trái của Trung Quốc ở Biển
đông với một mưu đồ thống nhất nhằm biến Biển Đông thành ao nhà Trung
Quốc. Với việc hạ đặt giàn khoan Hải dương 981 Trung Quốc đã xâm phạm
quyền chủ quyền và quyền tài phán tại thềm lục địa và vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam. Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các quy định của Công ước luật Biển 1982, vi
phạm tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 (DOC) và các thỏa
thuận liên quan giữa lãnh đạo cấp cao 2 nước cũng như thỏa thuận về
những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển VN – TQ.
Trải qua lịch sử hàng ngàn năm chống
ngoại xâm, trải qua các cuộc chiến tranh vệ quốc suốt chiều dài lịch sử,
người Việt Nam hiểu hơn ai hết những đau thương, mất mát của chiến
tranh cũng như những giá trị của hòa bình. Những ngày qua, mọi biện pháp
hòa bình trong khuôn khổ Hiến chương Liên Hợp quốc đã được phía Việt
Nam tận dụng để đấu tranh bảo vệ quyền chủ quyền và quyền tài phái của
quốc gia trước hành động hạ đặt giàn khoan trái phép của Trung Quốc.
Nhưng lịch sử dân tộc Việt Nam cũng chỉ ra rằng, chủ quyền lãnh thổ quốc
gia là vấn đề thiêng liêng nhất đối với mỗi người dân Việt Nam và Việt
Nam sẵn sằng sử dụng mọi biện pháp để bảo vệ lợi ích, chủ quyền của quốc
gia.
TEM vàng chị nhé! Cám ơn chị về thong tin bổ ích này!
Trả lờiXóaCảm ơn bạn đã "TEM VÀNG". Chúc bạn ngày mới cuối tuần vui vẻ, bình an.
Xóa[img]https://images-blogger-opensocial.googleusercontent.com/gadgets/proxy?url=http%3A%2F%2Fwww.weebly.com%2Fuploads%2F9%2F3%2F2%2F7%2F9327212%2F825373_orig.gif&container=blogger&gadget=a&rewriteMime=image%2F*[/img]
Bạn đã cung cấp các tư liệu nhiều bằng chứng lịch sử xác định chủ quyền của Việt Nam với 2 quần đảo Hoang Sa và Trường Sa, vạch trần nhưng thủ đoang bỉ ổi trấng trợn, bá quyền của phía TQ, bản thân tôi tham gia nhiều cuộc đàm phán và đấu tranh với phia TQ nên hiểu rất rõ những tham vong và thủ đoạn xảo trá của họ, lẽ phải ở phia ta nhưng ta cần làm cho dư luân quốc tê và nhân dân TQ hiểu rõ sự thật hơn nữa
Trả lờiXóaVâng, nhất trí với bạn. Nhưng làm cho nhân dân TQ hiểu rõ thì khó quá bởi vì TQ luôn đưa lên mạng và báo chí những điều ngược lại với ta, chúng đổi trắng thay đen, bôi nhọ ta mà ta chả làm gì được. Những người giỏi tiếng Trung như bạn nếu có đ/k hãy vào các trang mạng của chúng viết nhiều comments bằng tiếng Trung, vạch trần và bác bỏ những luận điệu vu cáo VN của chúng.
XóaNhư vậy mình hoàn toàn có thể kiện và về mặt pháp lý thì mình ở thế thắng. Nhưng tại sao mình không kiện?
Trả lờiXóaEm ko thể hiểu được lãnh đạo đất nước mình cô ạ!
Sợ làm trái ý sẽ bị quở trách hoặc mất chức chứ sao nữa Lan ơi!
XóaBạn CL đưa ra ý kiến " cần làm cho dư luận Quốc tế và nhân dân thế giới hiểu rõ sự thật hơn nữa ". Đó là một đề xuất đúng đắn..Để làm việc này, nếu ta chỉ sử dụng báo chí, đài phát thanh truyền hình trong nước, nói tiếng Việt v.v. thì tác dụng rất hạn chế. Được biết hồi bị mất HS năm 1974, chính quyền SG đã công bố sách trắng về vđ này. Tôi đánh giá cao hành động đó. Nhưng tại sao đến nay, nước ta không nhân dịp này công bố sách trắng của mình, cứ để cho bọn chúng xuyên tạc, đánh tráo sự thật. Thật khó hiểu. Tôi đề nghị bạn CL đưa ý kiến này lên Bộ NG càng sớm càng tốt. Tôi tin rằng với những bằng chứng không thể bấc bỏ như các vị viết trên đây cùng vô số sự thật khác, " sách trắng về HS,TS " của VN sẽ gây tiếng vang lớn,nhờ đó tập hợp thêm lực lượng ủng hộ ta, ngăn chặn âm mưu gây chiến của TQ...
Trả lờiXóaTôi ủng hộ và hoan nghênh ý kiến của bạn Kyvi. Hồi năm tám mấy của thế kỷ trước VN cũng đã ra sách trắng 1 lần rồi, hồi đó tôi có tham gia dịch và hiệu đinh ra tiếng Nga. Bây giờ lại phải dùng kế sách đó nữa đi chứ. Bạn CL nên tác động thêm mạnh vào nhé.
Xóa