Avram Noam Chomsky - "Người có trí tuệ nhất thế giới"
GS.TS Nguyễn Đức Dân
Avram Noam Chomsky sinh ra trong một gia đình trí thức Nga gốc Do Thái. Ông sinh ngày 07.12.1928, tại East Oak Lane, vùng ngoại ô Philadelphia, bang Pennsylvania. Cha ông là William Chomsky, trốn quân dịch Sa hoàng và di cư khỏi Nga năm 1913, là một học giả tiếng Hebrew.Mẹ ông Elsie Chomsky (tên thời con gái là Simonofsky) cũng gốc Nga nhưng sinh ra và lớn lên ở Mỹ, nói tiếng Anh giọng New York. Tiếng mẹ đẻ của bố mẹ ông là Yiddish, nhưng trong gia đình lại không dùng thứ tiếng này. Noam trong tiếng Hebrew có nghĩa là “hài lòng”.
Sau khi
tốt nghiệp trung học năm 1945, Chomsky học hành khá lang bang tại đại
học Philadelphia. Đầu tiên ông quan tâm tới tình hình chính trị ở Trung
Đông hơn cả việc học đại học. Ông từng có ý định thôi học để đi
Palestine. Tìm cách khuyên can con, cha ông giới thiệu với Zellig Harris
lúc đó cũng rất quan tâm tới chính trị. Thế là chàng thanh niên Chomsky
quyết định ở lại Philadelphia học ngôn ngữ học với Z. Harris. Quan điểm
chính trị của Z. Harris đã ảnh hưởng sâu đậm tới quan điểm của N.
Chomsky sau này.
Năm 1949, Chomsky kết hôn với nhà ngôn
ngữ học Carol Schattz. Họ có 3 con, hai gái, Aviva (sinh 1957) và Diane
(sinh 1960) và một trai, Harry (sinh 1967).
Đóng góp ngôn ngữ học
Trong
quá trình nghiên cứu “Phương pháp ngôn ngữ học cấu trúc” của Harris
(x. Harris, 1951) ông đã tìm ra phương pháp hình thức hóa chúng một
cách triệt để. Từ 1955, ông đã hoàn thành công trình Cấu trúc lô gích
của lý thuyết ngôn ngữ dày trên 900 trang [A, 1975a]. Chương Phương
pháp phân tích biến đổi của sách này được đệ trình làm luận án tiến sĩ.
Phương pháp biến đổi của N. Chomsky khác với phương pháp biến đổi của
Z. Harris ở điểm căn bản sau: Quy tắc biến đổi của Harris là hai
chiều, nghĩa là nếu cấu trúc A biến đổi thành cấu trúc B thì B cũng
biến đổi thành A ( A « B). Với Chomsky chỉ có biến đổi một chiều. Ông
đỗ tiến sĩ nhưng bị đánh giá khá xoàng. Một giáo sư phản biện viết:
‘Tôi không biết luận án này thuộc lĩnh vực gì, nhưng chắc chắn đây không
phải là ngôn ngữ học’. Thế là trong một hai năm tiếp theo, các tòa soạn
và nhà xuất bản trả lại bản thảo luận án và các bài báo của ông. Dù
sao, nhờ M. Halle và R. Jacobson mà Chomsky được một chân dạy tiếng
Pháp và tiếng Đức cho cán bộ khoa học-kỹ thuật ở học viện MIT
(Massachusetts Institute of Technology). Năm 1961 ông được phong
giáo sư Khoa ngôn ngữ hiện đại và ngôn ngữ học (nay là Khoa ngôn ngữ
học và triết học). Ông đã dạy ở MIT suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Năm
1957 nhà xuất bản Mouton ở Hà Lan in cho ông quyển Syntactic
Structures. Robert Lees, một học trò của ông, đã viết một bài dài hơn
30 trang giới thiệu và bình luận quyển sách này trên tạp chí Language
(1960). Nhờ đó thế giới biết tới ông. Cho đến nay, đây vẫn là công
trình được nhiều người biết nhất của N. Chomsky. Trong sách này có một
câu rất nổi tiếng minh họa cho quan niệm về ‘tính ngữ pháp’ của ông:
Colorless green ideas sleep furiously (những tư tưởng xanh lục không màu
đang ngủ một cách giận dữ), một câu vô nghĩa chỉ có thể xuất hiện
trong một bài thơ siêu thực vẫn có thể có tính ngữ pháp.
Ngữ pháp tạo sinh
Cách
tiếp cận cú pháp của N. Chomsky, thường mang tên ngữ pháp tạo sinh – GG
(generative grammar), mặc dù rất phổ biến ở Mỹ và một chừng mực nào đó ở
Pháp nhưng lại khó khăn với những nhà nghiên cứu ở ngoài Mỹ bởi lẽ
cách phân tích cú pháp đó rất trừu tượng. Nó dựa trên những nghiên cứu
công phu về ranh giới giữa những cấu trúc ngữ pháp và phi ngữ pháp trong
một ngôn ngữ. Những nghiên cứu này, như N. Chomsky từng nói, dựa trên
những quan sát kỹ lưỡng một số lượng khổng lồ các ngôn ngữ thuộc những
loại hình khác nhau suốt từ 1949 đến nay. Những phán xét về tính ngữ
pháp chỉ có thể thực hiện một cách chính xác bởi những người bản ngữ. Vì
những lý do ngữ dụng các nhà ngôn ngữ học thường nhấn mạnh tới tiếng
mẹ đẻ của họ hay ngôn ngữ mà họ chịu ảnh hưởng, như Anh, Pháp, Đức,
Đan Mạch, Ý, Nhật, Trung Quốc… khi giải thích và phát triển lý thuyết
này.
Đôi khi những phân tích của GG không thành công ở
ngôn ngữ mà trước đó chưa được nghiên cứu. Khi số lượng các ngôn ngữ
được khảo sát tăng lên cũng dẫn tới nhiều thay đổi của GG và sự khẳng
định về tính phổ quát ngôn ngữ học đã trở nên vững chắc hơn nhiều.
Về
phổ quát ngôn ngữ, Joseph Greenberg nổi tiếng với công trình được
nghiên cứu công phu qua rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Các ngôn ngữ
được phân loại theo những loại hình khác nhau, trong đó có loại hình về
trật tự từ. [Greenberg, 1966] Cách tiếp cận của N. Chomsky lại theo
hướng đưa ra giả thuyết bẩm sinh ngôn ngữ. Trẻ em được giả định là có
năng lực bẩm sinh (innate knowledge) về những cấu trúc ngữ pháp cơ bản
chung cho các ngôn ngữ tự nhiên. Tức là, ngôn ngữ nào cũng chứa đựng một
số hữu hạn những thành tố giống nhau. Tri thức bẩm sinh này thường
mang tên ngữ pháp phổ quát. Đó là một ngữ pháp hình thức có “tính tạo
sinh” (productivity): Với một tập hữu hạn các quy tắc ngữ pháp và một
tập hữu hạn các từ ngữ, con người có thể tạo ra vô hạn các câu, kể cả
các câu mà chưa bao giờ họ nói hoặc nghe thấy.
Cơ chế
này được những người bản ngữ kiểm chứng qua thời gian, từ 1949 đến nay.
Số lượng ngôn ngữ được kiểm chứng tăng lên rất nhiều. Có những bất ngờ.
Một trong những ví dụ thú vị là về trật tự từ. Vào thập niên 90 thế kỷ
trước, Richard Kayne, một nhà nghiên cứu nổi tiếng theo trường phái
Chomsky đã chứng minh rằng tất cả các ngôn ngữ đều có cấu trúc chìm
(underlying structure) theo trật tự S – V – O [ Kayne, 1994], một điều
không chấp nhận được vào thập niên 60 thế kỷ trước. Đến nay, giới ngôn
ngữ học Việt Nam cũng vẫn bất ngờ với kết luận này.
Năm
1979 N. Chomsky trình bày tại Hội nghị ngôn ngữ học thế giới GLOW
(Generative Linguistics in the Old World ) diễn ra ở Đại học Sư phạm
Pisa (Ý) cách tiếp cận P&P về ngôn ngữ (The Principles and
Parameters approach – những nguyên lý và tham biến), báo cáo này thường
mang tên The Pisa Lectures, sau này được gọi là lý thuyết G&B (Chi
phối và Gắn kết - Government and Binding theory) [1981]. Trong những
năm cuối thập niên 60 thế kỷ XX, một số quy tắc trong lý thuyết chuẩn
(Standard Theory - tên gọi cho công trình Aspects of the Theory of Syntax,
1965) không giải thích được một số vấn đề ngữ nghĩa nên đã được điều
chỉnh lại và mang tên lý thuyết chuẩn mở rộng (Extended Standard
Theory). Tiếp đến, đầu thập kỷ 70 với một số điều chỉnh mang tên ‘phạm
trù rỗng’ (empty categories), lý thuyết ‘thanh chắn – X’ (X-bar theory),
‘cấu trúc chìm và cấu trúc nổi’ (D- and S-structures) , và những điều
kiện biểu hiện như ‘bộ lọc Cách’ (Case filter) lại dẫn đến lý thuyết
chuẩn mở rộng nhìn lại (Revised Extended Standard Theory) làm cho mô
hình ngữ pháp trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Lý thuyết Chi phối và Gắn
kết đã điều chỉnh về cơ bản lý thuyết ngôn ngữ học tạo sinh trước đó,
là bước tiếp theo của N. Chomsky hướng tới một ngữ pháp phổ quát (Universal Grammar).
Năm
1993 N. Chomsky có bài "A minimalist program for linguistic theory"
in trong The view from Building 20: Essays in linguistics in honor of
Sylvain Bromberger [MIT Press, p. 1-52]. Sau xuất bản thành sách The
Minimalist Program [1995]. Đây là điều chỉnh cuối cùng về ngữ pháp phổ
quát của Chomsky: Chương trình MP nhằm phát triển lý thuyết ngữ pháp
chứ không phải là một lý thuyết. MP đưa ra một cách tiếp cận tối thiểu
với những công cụ mang tính kỹ thuật cho những nguyên lý và tham biến
được phát triển trong thập kỷ 80, cách tiếp cận gợi ý rằng tồn tại một
tập cố định những nguyên lý có giá trị với mọi ngôn ngữ cho phép tác
động tới một tập hợp hữu hạn những nút bấm lưỡng phân (t.l. những tham
biến) là có thể miêu tả được những tính chất đặc trưng cho hệ thống
ngôn ngữ mà trẻ em có được.
Trong MP, Chomsky đưa ra
hai luận điểm cơ bản. Sự tiết kiệm trong quá trình tạo câu (derivation)
và sự tiết kiệm trong quá trình biểu hiện câu (representation). Ở đây có
hàng loạt cách tân mang tính kỹ thuật trong tiếp cận ngữ pháp.
-
Ông khái quát hóa lý thuyết thanh chắn – X thành khái niệm BPS – cấu
trúc cú đoạn chủ yếu (Bare Phrase Structure) ở 4 điểm quan trọng: a) Câu
được phái sinh tường minh, biểu hiện từ dưới - lên chứ không từ trên -
xuống như trong lý thuyết thanh chắn – X. b)Cấu trúc câu là không được
nhận biết trước. c) Chỉ có hiện tượng rẽ nhánh lưỡng phân chứ không
chấp nhận cả rẽ nhánh đơn phân (unary branching) như ở lý thuyết thanh
chắn –X. d) Không phân biệt điểm đầu (head) và điểm cuối (terminal) như
có trong lý thuyết thanh chắn – X. Trong BPS có hai tác tử cơ bản: Merge
là tác tử ánh xạ lên hai đối tượng (khi hai từ đứng cạnh nhau thì tạo
ra nghĩa mới như thế nào), và Move là tác tử khiến một từ chuyển dịch từ
chủ thể-đối tượng này sang chủ thể-đối tượng khác.
-
Đơn giản hóa hai mức độ biểu hiện trong mô hình ngữ pháp bằng cách loại
đi sự phân biệt giữa cấu trúc chìm và cấu trúc nổi bằng cách tiếp cận
phái sinh tường minh hơn.
- Loại bỏ khái niệm chi phối (government)
- Đưa vào một điểm đơn, gọi là Spell-Out, về tương tác cú pháp trong nói năng.
- Sự phái sinh cú pháp được thực hiện một cách rõ ràng qua những trạng thái được gọi là phases.
Đóng góp tâm lý học
Những
công trình ngôn ngữ học của N. Chomsky đã ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý
học và những hướng phát triển cơ bản của nó trong thế kỷ 20. Lý thuyết
về ngữ pháp phổ quát của ông và một hệ luận của nó là vấn đề trẻ em học
ngôn ngữ như thế nào, được xem là thách đố trực tiếp với những lý
thuyết hành vi luận đã biết. Nhiều nguyên lý cơ bản của Chomsky đã được
một số trung tâm tâm lý học chấp nhận.
Năm 1959, N. Chomsky viết bài “B.F. Skinner's Verbal Behavior”
bình luận về cuốn sách Verbal Behavior của B.F.Skinner. Bài này đã
tấn công mạnh mẽ vào khái niệm cơ bản ‘tâm lý hành vi’ của B.F.Skinner.
Bài này được nhìn nhận là một cột mốc cho cuộc ‘cách mạng tri nhận’,
làm nên sự thay đổi tận gốc rễ tâm lý học Mỹ từ thập kỷ 50 tới thập kỷ
70 thế kỷ trước, từ hành vi nguyên thủy tới tri nhận nguyên thủy. Và N.
Chomsky được coi là một trong những người tiên phong trong cuộc cách
mạng tâm lý học theo hướng nghiên cứu tâm lý học tri nhận.
Trong
Cartesian Linguistics [1966 ] và những bài viết sau đó, sự trình bày
về năng lực ngôn ngữ của con người đã trở thành khuôn mẫu cho một số
khảo cứu trong lĩnh vực tâm lý học. Nhiều khái niệm tâm lý học hiện nay
về trí não hoạt động như thế nào bắt nguồn trực tiếp từ đây. Ba điểm
then chốt là: Một, trí não (the mind) là ‘tri nhận’, hay là con đường
chung để hiểu trí não là thừa nhận rằng chúng chứa đựng những đối
tượng như niềm tin, sự ngờ vực, và những trạng thái tinh thần (mental)
vô thức khác. Hai, phần lớn những điều mà trí não một người trưởng
thành có được là ‘bẩm sinh’. Trong khi không một đứa trẻ nào sinh ra có
thể nói được một ngôn ngữ thì chúng có đầy đủ mọi khả năng học nhanh
chóng nhiều ngôn ngữ ở giai đoạn đầu đời. Điều này được các nhà tâm lý
học mở rộng ra ngoài địa hạt ngôn ngữ. Ba, Chomsky đưa ra khái niệm
‘modularity’ (tính cấu thành bộ phận) về trí não: Trí não gồm các hợp
thành bộ phận, có những tập con với các dòng hữu hạn tương tác thông tin
nội bộ (inter-communication). Điều này hoàn toàn đối lập với quan
điểm cũ là bất kỳ mảng thông tin nào trong trí não cũng được ghi nhận
qua một quá trình tri nhận khác.
Quan điểm và hoạt động chính trị – N. Chomsky và Việt Nam
N.
Chomsky là gương mặt nổi bật nhất của những nhà chính trị Mỹ cấp tiến.
Trong Từ điển các nhà triết học Mỹ hiện đại[Trd, 2009], N. Chomsky được
coi là “một trong những người phê bình cánh tả có ảnh hưởng nhất tới
chính sách ngoại giao Mỹ” Ông tham gia nhiều hoạt động chính trị và
viết rất nhiều sách, nhiều bài trên các tạp chí về vấn đề này. Ông là
ủy viên hội đồng (Senior Scholar) của Viện nghiên cứu chính trị
(Institute for Policy Studies). Vài năm trước đây, trong một cuộc bình
chọn 11 người xứng đáng đứng đầu một nhà nước toàn cầu (global
government), ông được xếp hạng 4, sau Nelson Mandela, Bill Clinton và
Đạt-lai Lạt-ma. Ông nổi tiếng thế giới về những quan điểm chính trị.
Những phê bình liên tục và vang dội của ông có ảnh hưởng to lớn tới
chính sách đối ngoại của Mỹ. Những người đứng đầu chính quyền Mỹ coi
ông là một gương mặt phản kháng. Thậm chí N. Chomsky từng bị nhận
những lời đe dọa tính mạng vì phê phán chính sách đối ngoại của Mỹ. Ông
quan tâm tới nhiều lĩnh vực khác nhau: chủ nghĩa khủng bố, vấn đề toàn
cầu hóa, chủ nghĩa xã hội, truyền thông đại chúng, vấn đề Trung Đông,
phê bình giới trí thức, nhất là trí thức Mỹ và Pháp.
Đặc
biệt, N. Chomsky là người đứng đầu phản kháng cuộc chiến tranh của Mỹ
ở Việt Nam với tập tiểu luận nổi tiếng “Trách nhiệm của người trí
thức” [B,1967]. Ông đã từng tham gia biểu tình tuần hành chống chiến
tranh ở Việt Nam. Mùa xuân 1972, N. Chomsky trình bày về nguồn gốc cuộc
chiến tranh ở Việt Nam trước Ủy ban quan hệ đối ngoại của Thượng viện
Mỹ do J. William Fulbright là chủ tịch. Ngày 10.4.1970, Noam Chomsky trong đoàn đại biểu trí thức Mỹ 3 người sang thăm Việt Nam.
Lúc đó tên ông được báo Nhân Dân phiên là “Nô-am Trom-xki”. Trong
bài phát biểu trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày 13.4.1970, N. Chomsky nói
ông ‘kính trọng nhân dân Việt Nam đã có thể bảo vệ mình, chống lại cuộc
tấn công tàn bạo, đồng thời có những thành quả lớn lao trong việc xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa’. Ông đã gặp gỡ, trao đổi với tổng bí
thư Lê Duẩn , bày tỏ ủng hộ đường lối chính trị của Việt Nam. Ông
trình bày lý thuyết ngôn ngữ học của mình tại Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Có giai thoại sau: Người phiên dịch tiếng Anh rất lúng túng, không
dịch được những điều ông nói. Một ông già lững thững đi từ phía dưới lên
dịch thay. Chomsky chắc ông này dịch chính xác vì mỗi khi nói xong ông
ấy dịch ngay rất lưu loát, lại nghe những tiếng ồ, à tán thưởng.
Chomsky rất bất ngờ vì lúc đó ở Việt Nam đã có người hiểu ông đến như
vậy. Sau đó càng bất ngờ hơn khi Chomsky biết “ông già” này là bộ trưởng
Bộ Đại học Tạ Quang Bửu.
Phương pháp tiếp cận khoa học – Ảnh hưởng của N. Chomsky
Chomsky
coi khoa học là những nghiên cứu giải thích. Ông bác bỏ quan điểm
phân loại luận trong khoa học, nghĩa là nghiên cứu khoa học không phải
là lập ra một danh sách phân loại những sự kiện hay là những giải
thích chúng theo một cơ cấu máy móc. [Năm 1942, nhà ngôn ngữ học theo
trường phái cấu trúc cổ điển Charles F. Hockett (1916 – 2000) từng viết
rằng ‘ngôn ngữ học là khoa học phân loại’].
Ông coi
một số những phê bình của những người được gọi là hậu-cấu trúc hay hậu
hiện đại là không có ý nghĩa gì. Ông lấy làm thất vọng khi đọc những
công trình mù mờ, rối rắm của trường phái hậu-cấu trúc hoặc hậu hiện
đại đến nỗi ‘mắt đờ đẫn ra’ (my eyes glaze over). Điều này không giống
với những chứng minh rắc rối, phức tạp trong toán học hay vật lý. Ông
không hiểu chi tiết nhưng tin những chứng minh đó đúng và nhà khoa học
có thể giải thích để ông hiểu cốt lõi của vấn đề là gì. Theo ông, điều
quan trọng đối với một công trình khoa học là luận giải tường minh.
Khoa học nói về những điều rất đơn giản và đặt ra những câu hỏi hóc búa
chưa có những câu trả lời thỏa đáng. Theo ông, nhiều công trình khoa
học chỉ mới nắm bắt được những điều ngoài rìa, chưa đi vào bản chất sự
kiện. Phần lớn những công trình khoa học của ông là những giả thuyết.
Chomsky
đã có ảnh hưởng rất lớn đến khuynh hướng ngôn ngữ học thế giới nửa
cuối thế kỷ 20. John Searle đã từng viết bài “Cuộc cách mạng trong
ngôn ngữ học của N. Chomsky”( Chomsky's Revolution in Linguistics, trên The New York Review of Books,
số ngày 29.6. 1972) dài gần 11.300 từ đánh giá những cống hiến vĩ
đại và tầm ảnh hưởng to lớn của Chomsky về ngôn ngữ học và tâm lý học.
Tiếng
Anh có từ chomskyan, có nghĩa là những người theo trường phái ngôn ngữ
học Chomsky. Nhưng Chomsky lại không ưa thuật ngữ này.
Những mô hình Chomsky đã trở thành cơ sở lý thuyết cho hàng loạt lĩnh vực khác nhau.
Chỉ
với một bài Ba mô hình miêu tả ngôn ngữ [A,1956], N. Chomsky đã để
lại dấu ấn sâu sắc và được coi là giáo trình nền tảng trong lĩnh vực
khoa học máy tính vì đã cung cấp những kiểu ngôn ngữ hình thức khác nhau
. Bài này đề cập tới 3 loại ngôn ngữ hình thức khác nhau được phân theo
tầng bậc để miêu tả ngôn ngữ tự nhiên, cấp độ sau miêu tả mạnh hơn và
bao chứa cấp độ trước. Đó là: 1) Ngữ pháp các trạng thái hữu hạn. Mô
hình này được xây dựng theo lý thuyết ôtômát hữu hạn trạng thái của
nhà toán học Nga A. Markov; 2) Ngữ pháp các thành tố trực tiếp , còn
gọi là ngữ pháp cấu trúc cú đoạn (phrase structure grammar); Mô hình này
xây dựng các quy tắc viết lại theo phương pháp suy luận của Post
trong lý thuyết ôtômát. 3) Ngữ pháp biến đổi (transformational grammar),
về sau được gọi là ngữ pháp tạo sinh. Chính N. Chomsky đã lưu ý, một
số phương diện của ngôn ngữ tự nhiên đòi hỏi những mô hình ngôn ngữ phức
tạp hơn. Ở Việt Nam, ba mô hình này đã được Nguyễn Đức Dân giới thiệu
[NĐD, 1977].
Donald Knuth, một chuyên gia lừng danh về
khoa học máy tính, tiết lộ: Năm 1961, khi hưởng tuần trăng mật ông đọc
quyển Syntactic Strctures. Chính lý thuyết toán học về các ngôn ngữ
nảy ra hàng loạt điều trực cảm tuyệt vời giúp ông viết ra những chương
trình máy tính.
Sự phân tầng ngôn ngữ này cũng được các nhà toán học tổ hợp quan tâm.
Cũng từ sự phân tầng này đã nảy sinh một số luận điểm trong cuộc cách mạng tâm lý học.
Niels
K. Jerne, nhận giải Nobel Y học 1984, đã dùng mô hình tạo sinh của
N. Chomsky để giải thích hệ thống miễn dịch của con người. Theo ông, có
một ‘ngữ pháp tạo sinh của hệ miễn dịch’: các bộ phận hợp thành của ngữ
pháp tạo sinh … được coi như những đặc trưng khác nhau trong cấu trúc
protein.
Ở Đại học Columbia , khi nghiên cứu sự tiếp
nhận ngôn ngữ loài vật của con tinh tinh (chimpazee) người ta thấy rằng
năng lực ngôn ngữ bẩm sinh chỉ có ở loài người. Họ bèn lấy tên N.
Chomsky để đặt cho hiện tượng này: Nim Chimpsky
Một
điểm nhấn trong những công trình về chính trị của N. Chomsky là phân
tích xu hướng chủ đạo trong lĩnh vực truyền thông đại chúng, đặc biệt
là ở Mỹ, về cấu trúc, về những ràng buộc và sự tiếp nhận chúng trong
vai trò biện hộ cho những đại doanh nghiệp và lợi ích của chính quyền.
Công trình cộng tác với Edward S. Herman Manufacturing Consent: The
Political Economy of the Mass Media [B,1988, 2002] đã gây tiếng vang
lớn. Ở đó đã phân tích sâu sắc và được minh họa qua hàng loạt ví dụ
về ‘mô hình tuyên truyền’ (propaganda model) với 5 ‘bộ lọc’ (five
‘filters’) gây ra xu hướng tiếp nhận sai lệch nhằm tạo sự đồng thuận
qua những tin tức truyền thông. Có những dẫn chứng hùng hồn cho mô
hình này trong việc báo chí đưa tin về Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết
Mậu Thân 1968 của chúng ta (báo chí Mỹ gọi là Tet Offensive).
N.
Chomsky là người luôn luôn bảo vệ mạnh mẽ quan điểm khoa học của mình.
Ông từng có các cuộc tranh luận về ngôn ngữ học, về triết học, về tâm lý
học và về chính trị với nhiều nhà học giả, như Jean Piaget, Michel
Foucault, William F. Buckley, Christopher Hitchens [6 cuộc]; George
Lakoff, Richard Perle, Hilary Putnam, Willard Quine; Alan Dershovitz.
Ông
đã giảng dạy và thuyết trình ở rất nhiều trường đại học danh tiếng
trên thế giới và cũng nhận được hàng loạt bằng tiến sĩ danh dự của gần
40 trường đại học trên thế giới.
Thế mà em mù tịt về thông tin này. Cám ơn chị nhé
Trả lờiXóaEm chúc chị khỏe vui ạ
Cảm ơn Hạt Cát đã ghé qua. Chúc bạn luôn vui nhé.
XóaUi ! Nhà chị gái Tiến Hoàn đẹp quá, chúc chị an cư lạc nghiệp trên miền đất mới chị gái nha ! (~_~)
Trả lờiXóaCảm ơn Bạch Dương qua thăm, lại còn động viên nữa, được BD khen vui quá. Chúc bạn về nơi mới sớm ổn định và phát triển nhanh như vũ bão nhé.
XóaĐọc bài này ,tôi rơi vào trạng thái " mắt hoa đầu váng,loáng quáng tứ chi " còn hơn cả vịt nghe sấm ! Hàng loạt thuật ngữ đủ các chuyên ngành rất sâu có lẽ chỉ có cụ Trâm Ngọc làng ta hiểu được. Tuy nhiên tôi rất khoái Ông vì đã ủng hộ VN và tạo ra cơ sở khoa học cho phần mềm máy tính . Rồi đoạn nói về Bộ trưởng TQB dịch hộ.v.vLại càng phục lắm lớp trí thức được Bác Hồ chọn làm Bộ trường. Còn bây giờ, Ông BT bộ GD thì sao nhỉ , nghe ổng nói, chán mớ đời luôn !
Trả lờiXóaCảm tưởng của tôi về bài này và ông này cũng giống như cụ đấy. Có điều là cụ diễn đạt rất nghệ thuật. Cảm ơn cụ. Mời cụ sang xem bài sau về nghệ thuật tạo hình nhé.
XóaĐọc bai này em có cảm tưởng tác giả NĐD là thày giáo cấp 3 của em! Sau này Thầy cũng nghiên cưu về ngôn ngữ( theo phuwowng pháp toán học ) chị ạ. Nhưng thày bây giờ dạy ở TP HCM nên em không rõ. Thank you!
Trả lờiXóaNếu đúng là thầy cũ của ST thì xin chúc mừng vì ST được là học trò của một người thầy chắc là rất giỏi. Vì viết chuyên sâu thế này thì phải nắm vững chuyên môn lắm. Cảm ơn bạn.
XóaCảm ơn Hoàn đã cho đăng một bài viết rất hay mặc dù khá dài. Học ngôn ngữ ra thì phải biết về Noam Chomsky rồi. Nhưng thời đó bọn Trâm biết không nhiều về ông. Những năm 64, 65 khoa ngữ văn hoc ở nơi sơ tán Thái Nguyên. Đây là những năm đầu khoa ngữ văn chia làm 2: văn học và ngôn ngữ. Và khoa ngôn ngữ có giáo trình chưa ổn đinh, chưa hoàn tất. Năm cuối chúng tôi học chuyên về ngôn ngữ, và được thày Ng. Đức Dân (mới tôt nghiệp tiến sĩ ở Ba Lan về) giảng về lý thuyết tạo sinh của N.Chomsky. Chúng tôi chỉ hoc chuyên đề, thảo luận và nghe giảng chứ không thi. Đọc bài Hoàn viết Trâm rất vui mừng khi biết Noam Chomsky được đánh giá là “người có trí tuệ nhất thế giới”.
Trả lờiXóaHoàn rất mừng vì Trâm đã đọc bài này, vì chỉ có Trâm là người duy nhất trong số bạn bè hiểu được nội dung những đóng góp về ngôn ngữ của Noam Chomsky. Hơn nữa rất vui vì tác giả bài này lại là thầy cũ của Trâm (và của Song Thu nữa) và Noam Chomsky suy ra thì cũng như thầy của Trâm. Trâm có những thầy giỏi thế cho nên Trâm giỏi ngôn ngữ là phải. Cảm ơn Trâm đã viết nhận xét cho bài này.
XóaCám ơn cụ đã đăng bài này, vì tôi đọc chẳng hiểu gì cả mà cái nền xanh lét thì nhức mắt quá. Thank!
Trả lờiXóa